Trong lĩnh vực kinh doanh, một thước đo phổ biến để đánh giá tính cơ động của doanh nghiệp là tỷ lệ thanh toán hiện hành.
Tỷ lệ này được tính bằng tỷ lệ giữa tài sản lưu động, như tiền mặt, chứng khoán và khoản phải thu, so với nợ ngắn hạn, bao gồm các khoản phải trả và phần sắp đến hạn phải trả của khoản nợ dài hạn. Tỷ lệ thanh toán hiện hành thường được coi là ít nhất phải là 2/1 đối với hầu hết các hoạt động kinh doanh. Tỷ lệ này được tính như sau:
Tỷ lệ thanh toán hiện hành = (tài sản lưu động) / (nợ ngắn hạn)
Một tỷ lệ khác liên quan đến tỷ lệ thanh toán hiện hành là tỷ lệ thanh toán nhanh. Tỷ lệ này đo lường mối quan hệ giữa các tài sản linh hoạt – tức là các tài sản có thể dễ dàng chuyển đổi sang tiền mặt – và số nợ ngắn hạn. Đa số cho rằng tỷ lệ này nên ít nhất là 1/1. Nó được tính toán như sau:
Tỷ lệ thanh toán nhanh = {(tiền mặt) + (các chứng khoán bán được) + (các khoản phải thu)} / (nợ ngắn hạn)
Hai tỷ lệ cuối cùng về tính thanh khoản đo lường tốc độ chuyển các khoản phải thu và các khoản dự trữ thành những tài sản lưu động linh hoạt hơn.
Kỳ thu tiền bình quân là tỷ lệ đo lường tốc độ chuyển các khoản phải thu thành tiền mặt:
Doanh thu trung bình hàng ngày = (doanh thu thuần túy) / 365 ngày
Kỳ thu tiền bình quân = (các khoản phải thu) / (doanh thu trung bình hàng ngày)
Quy tắc theo đa số cho rằng, kỳ thu tiền bình quân không nên vượt hạn thực tế phải thanh toán theo quy định của các điều kiện bán hàng của công ty quá 10 hoặc 15 ngày
Tỷ lệ luân chuyển dự trữ (vòng quay hàng tồn kho) biểu thị quan hệ của các mức luân chuyển hàng năm hoặc số ngày mà các hàng hóa được lưu giữ lại dưới dạng dự trữ, đo lường tốc độ chuyển các khoản dự trữ thành lượng bán (và do đó sẽ trở thành các khoản phải thu):
Luân chuyển dự trữ = (giá vốn hàng bán) / (dự trữ trung bình)
Số ngày hàng hóa nằm trong dự trữ = (365 ngày) / (luân chuyển dự trữ)