Những tháng đầu năm 2024, kinh tế thế giới và trong nước tiếp tục gặp nhiều khó khăn, thách thức nhưng các ngành, các cấp từ Trung ương đến địa phương đã quyết liệt thực hiện giải pháp trong Chỉ thị, Nghị quyết của Chính phủ về phát triển kinh tế – xã hội nhằm đạt kết quả cao nhất các mục tiêu của kế hoạch sản xuất, kinh doanh năm 2024. Tình hình kinh tế – xã hội quý I/2024 của nước ta duy trì xu hướng tích cực, kinh tế vĩ mô ổn định, lạm phát trong tầm kiểm soát, các cân đối lớn được đảm bảo, các ngành, lĩnh vực đạt được nhiều kết quả quan trọng, tạo đà tăng trưởng cho các quý tiếp theo. Một số điểm sáng kinh tế – xã hội quý I/2024 của nước ta như sau:

(1) Trong bối cảnh kinh tế thế giới còn nhiều bất ổn, khó khăn nhiều hơn thuận lợi nhưng kinh tế quý I/2024 của nước ta vẫn duy trì tăng trưởng tích cực nhờ hiệu quả các chủ trương, chính sách của Đảng, Quốc hội và điều hành, quản lý vĩ mô của Chính phủ, Thủ tướng Chính phú, Bộ, ngành và địa phương. Tốc độ tăng GDP quý I năm nay đạt 5,66% so với cùng kỳ năm trước, trong đó, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 2,98%, đóng góp 6,09% vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 6,28%, đóng góp 41,68%; khu vực dịch vụ tăng 6,12%, đóng góp 52,23%.

Hình 1: Tốc độ tăng GDP quý I
so với cùng kỳ năm trước các năm 200-2024 (%)

 (2) Tiến độ thu hoạch lúa đông xuân nhanh hơn năm trước; sản lượng một số cây lâu năm, các sản phẩm chăn nuôi, lâm nghiệp và thủy sản chủ yếu đều tăng so với cùng kỳ năm trước.

Tính đến 15/3/2024, vùng Đồng bằng sông Cửu Long đã thu hoạch 868,8 nghìn ha lúa đông xuân, tăng 6,1% so với cùng kỳ năm trước; sản lượng ước đạt 10,7 triệu tấn, tăng 65 nghìn tấn. Sản lượng thu hoạch nhiều loại cây ăn quả quý I/2024 tăng so với cùng kỳ năm 2023 do thời tiết thuận lợi, giá bán sản phẩm ổn định. Trong đó, xoài tăng 3,6%; chuối tăng 3,8%; cam tăng 4,1%; sầu riêng tăng 27,1% …

Sản lượng một số sản phẩm chăn nuôi chủ yếu tăng so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, sản lượng thịt bò hơi xuất chuồng quý I/2024 ước đạt 132,5 nghìn tấn, tăng 1,5%; sản lượng sữa bò tươi tăng 5,2%; sản lượng thịt lợn hơi xuất chuồng đạt 1.293,9 nghìn tấn, tăng 4,6% do chăn nuôi lợn khởi sắc, giá bán thịt hơi tăng; sản lượng thịt gia cầm hơi xuất chuồng đạt 593,5 nghìn tấn, tăng 5,1%; sản lượng trứng gia cầm tăng 4,8%.

Công tác chăm sóc và bảo vệ rừng, thu hoạch gỗ đến kỳ khai thác được đẩy mạnh. Tính chung quý I/2024, số cây lâm nghiệp trồng phân tán ước đạt 23,6 triệu cây, tăng 3,6%; sản lượng gỗ khai thác đạt 3.670,1 nghìn m3, tăng 4,6% do xuất khẩu gỗ khởi sắc.

Nuôi trồng thủy sản tăng khá do cá tra nguyên liệu và tôm thẻ chân trắng tăng so với quý trước[1]. Sản lượng thủy sản nuôi trồng quý I/2024 ước tăng 3,9% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, cá tra tăng 4,2%, tôm thẻ chân trắng tăng 5,8%.

(3) Tỷ lệ tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo giảm nhiều so với cùng kỳ năm trước, là tín hiệu tốt của nền kinh tế. Tỷ lệ tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo[2] bình quân quý I/2024 là 68,7% (cùng kỳ năm trước là 81,1%). Một số ngành có tỷ lệ tồn kho bình quân quý I năm nay ở mức thấp hơn cùng kỳ năm trước là: Chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ, tre, nứa 108,7% (cùng kỳ năm trước là 153,9%); sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất 104,6% (cùng kỳ năm trước là 190,1%); sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác 55,7% (cùng kỳ năm trước là 131,9%)…

(4) Hoạt động thương mại dịch vụ sôi động và duy trì mức tăng cao so với cùng kỳ năm trước. Tính chung quý I/2024, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng 8,2% so với cùng kỳ năm trước; vận chuyển hành khách tăng 8,5% và luân chuyển tăng 10,7%; vận chuyển hàng hóa tăng 13% và luân chuyển tăng 11,2%.

Hình 2: Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
theo giá hiện hành quý I các năm 2020-2024

Cán cân thương mại hàng hóa quý I/2024 ước tính xuất siêu 8,08 tỷ USD (cùng kỳ năm trước xuất siêu 4,93 tỷ USD), trong đó xuất siêu của một số mặt hàng: Điện thoại và linh kiện 12,37 tỷ USD; gỗ và sản phẩm gỗ 2,82 tỷ USD; máy ảnh, máy quay phim và linh kiện 1,59 tỷ USD; thủy sản 1,23 tỷ USD; rau quả 722 triệu USD; sản phẩm từ chất dẻo 684 triệu USD; máy móc thiết bị và dụng cụ phụ tùng khác 564 triệu USD.

Hình 3: Kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa quý I các năm 2020-2024

(5) Khách quốc tế đến nước ta tăng cao nhờ triển khai hiệu quả từ các chính sách thị thực thuận lợi và chương trình kích cầu du lịch. Khách quốc tế đến Việt Nam quý I/2024 đạt hơn 4,6 triệu lượt người, tăng 72% so với cùng kỳ năm trước và tăng 3,2% so với cùng kỳ năm 2019 – năm chưa xảy ra dịch Covid-19, cho thấy ngành du lịch đang ngày càng phục hồi mạnh mẽ.

(6) Thu hút vốn đầu tư nước ngoài tính đến 20/3/2024 tiếp tục là điểm sáng trong bối cảnh thương mại, đầu tư toàn cầu bị thu hẹp.

Tính đến ngày 20/3/2024, cả nước có 644 dự án mới được cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư nước ngoài với số vốn đạt 4.774 triệu USD, tăng 23,4% về số dự án và tăng 57,9% về số vốn so với cùng kỳ năm 2023 (cùng kỳ năm 2023 có 522 dự án và vốn đăng ký đạt 3.023 triệu USD), cho thấy Việt Nam vẫn là điểm đến hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài. Vốn đầu tư nước ngoài thực hiện đạt 4.630 triệu USD, tăng 7,1% so với cùng kỳ năm trước, là mức thực hiện cao nhất trong 5 năm qua[1].

Hình 4: Vốn đầu tư nước ngoài đăng ký vào Việt Nam
tính đến ngày 20/3 các năm 2020-2024 (Tỷ USD)

 (7) Lạm phát được kiểm soát theo mục tiêu đề ra. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân quý I/2024 tăng 3,77% so với cùng kỳ năm trước, lạm phát cơ bản tăng 2,81%.

Hình 5: Tốc độ tăng CPI bình quân quý I
so với cùng kỳ năm trước các năm 2020-2024 (%)

(8) Lao động, việc làm trong quý I/2024 đã quay trở lại xu hướng phát triển bình thường như những năm trước dịch Covid-19; công tác bảo đảm an sinh xã hội được các cấp, ngành thực hiện kịp thời, hiệu quả.

So với cùng kỳ năm trước, lao động có việc làm quý I/2024 ước tăng 174,1 nghìn người; tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động ước giảm 0,01 điểm phần trăm; thu nhập bình quân của lao động là 7,6 triệu đồng/tháng, tăng 549 nghìn đồng.

Tính đến ngày 19/3/2024, tổng số tiền hỗ trợ đối tượng bảo trợ xã hội theo Nghị định số 20/2021/NĐ-CP ngày 15/3/2021 là 8,1 nghìn tỷ đồng; hộ nghèo, hộ cận nghèo là hơn 2,4 nghìn tỷ đồng; người có công, thân nhân người có công với cách mạng là 9,2 nghìn tỷ đồng. Ngoài ra, bảo hiểm xã hội đã cấp phát hơn 27,1 triệu thẻ BHYT/sổ/thẻ khám chữa bệnh miễn phí cho các đối tượng thụ hưởng.

[1] Vốn FDI thực hiện quý I các năm 2020-2024 lần lượt là: 3,9 tỷ USD; 4,1 tỷ USD; 4,4 tỷ USD; 4,3 tỷ USD; 4,6 tỷ USD.

[1] Giá cá tra nguyên liệu tăng từ 25.000-26.000 đồng/kg quý IV/2023 lên 28.000-29.000 đồng/kg quý I/2024; tôm thẻ chân trắng loại 100 con/kg từ 70.000-75.000 đồng/kg lên 90.000-95.000 đồng/kg.[2] Tỷ lệ tồn kho ở mức an toàn là 65%.

(Nguồn: Tổng cục thống kê)